30.11.10

VNI 30-11

Lâu quá và cũng bận quá không ghé nhà được.
Nói chung VNI đi theo hình đó, tôi post cũng hơn tháng rồi, giờ lấy lại đặt lên tẹo.
Có điều nó đi theo đường màu vàng, và lúc đó cách đây hơn 1 tháng nên hành trình chưa thật chuẩn, tôi cũng lười update. Khi đó đường màu vàng 30% tôi cho là Fake vì nếu VNI thủng hỗ trỡ rồi bật lên ngay thì sẽ thành fake, và VNI vẫn nằm trên đường hỗ trợ. Tuy nhiên nó phải đi thêm 1 vòng nữa trong cái range rồi mới thủng.
Và bây giờ VNI bật lên tại điểm hỗ trợ của đường màu vàng nhưng theo cách đi của đường màu xanh nhạt, đến điểm giao nhau của 2 đường hỗ trợ và kháng cự.

Dưới đây là đồ thị mới theo dữ liệu đến 30-11.




Hôm nay VNI loanh quanh khu vực 2 đường hỗ trợ và kháng cự giao nhau.
Thông thường tôi quan sát các cổ phiếu thì chạm vào đây là nó sẽ phải giảm và nó lại đúng hình mẫu 3 cái dấu tròn vàng, đỏ và xanh. Khả năng rất lớn là mai VNI sẽ giảm.

VNI hiện nay ở khu vực tôi thấy rất phức tạp. Phức tạp do KLGD hôm nay lớn.
Nếu hôm nay không có KLGD lớn thì triển vọng VNI sẽ phá 2 đường hỗ trợ và kháng cự dễ dàng, đi theo giả thuyết giống tôi vẽ hồi tháng 10. Tuy nhiên do KLGD lớn, nên tôi rất ngại VNI loanh quanh chạm đỉnh trong giai đoạn này. Bởi vì KLGD lớn thường là hôm đạt đỉnh. Vì thế tôi toàn mua khi KLGD thấp lè tè, ngược với báo chí nói. Còn KLGD lớn thì chỉ nên bán.
Vậy thì trong tuần này, nếu có hôm nào KLGD lên khoảng 70tr, tức là chạm vùng dấu ??? thì đó là đỉnh.

Mà nếu là đỉnh thì sau đó là hành trình giảm giá. Khi đó S3 sẽ trở thành kháng cự mạnh của nó và VNI đi theo đường màu hồng. Giả thuyết này thấp nhưng nó vẫn xuất hiện vì cần nhìn nhận TT khách quan theo đúng tín hiệu. Nếu xảy ra cái này thì tôi cho rằng trong thời gian tới ở VN và cả thế giới có biến động gì đó ghê gớm lắm, mới khiến mọi người mất lòng tin nghiêm trọng. Chỉ cần VNI thủng Fib 61.8 là đi theo màu hồng chắc chắn.

Còn về cơ bản, hôm nay KLGD lớn, nhưng khả năng VNI chạm đỉnh hay chưa thì vẫn còn nghi ngờ. Nếu mai và các ngày tới, KLGD thấp hoặc tầm tầm 40-50tr thì VNI chưa phải là đỉnh và nó sẽ phá S3 lẫn R1. Khi đó S3 và R1 là hỗ trợ cứng của VNI và có 2 hành trình dự kiến là màu vàng và màu xanh. Bản thân 2 hướng này có hỗ trợ mạnh của mô mình wedge màu đỏ. Vượt qua cái nêm đó là tăng khá mạnh.

Dù sao do hôm nay có dấu hiệu của KLGD lớn, tức là xuất hiện khả năng màu hồng nên cuối ngày tôi thoát 1 ít, khoảng 20% hàng. Tức là hiện giờ còn khoảng 75% cổ phiếu (lúc VNI về 430 tôi đã mua thêm gần hết). Còn nếu mai mốt VNI đi theo màu vàng, xanh thì vẫn còn cơ hội mua lại bằng giá hôm nay. Đó là cách mà tôi quản lý mua bán.

Hôm lâu có bạn hỏi sao không thấy chú ý đến KLGD thì hôm nay là ngày cần chú ý KLGD. Khoảng thang 10 tôi đã có đường KLGD này và chỉ cần nhớ trong đầu là hôm nào mà KLGD lên 75tr sẽ là đỉnh. Tuy nhiên sang tháng 11  nên tôi ước tính hôm nay KLGD đạt 65tr sẽ là đỉnh vì đường kháng cự đó dốc xuống. (khổ, mấy tuần nay ko nạp dữ liệu và ngó ngàng CK nên chỉ ước lượng trong đầu). Tối về xem dữ liệu thì KLGD phải ~70tr mới là đỉnh chứ ko phải 65tr. Dù sao KLGD lớn cũng là dấu hiệu không hay lắm.

Ngoài ra VNI cần chú ý thêm là độ dốc của S3 kém S2, kém S1 nên độ dốc giảm giá cũng ít đi.

Còn dấu hiệu yên tâm khác là khi VNI vừa phá S3 và R1, đồng thời KLGD từ nay đến cuối tuần luôn cao hơn KLGD trung bình, đạt khoảng 40-60tr/ngày thì khi đó VNI lên rất yên tâm. Vì nhìn sang đồ thị weekly, KLGD phá kênh, đồng thời VNI cũng phá hình mẫu cái nêm. Đó là dạng điển hình của đồ thị tăng giá.

7.11.10

Chứng khoán cuối tuần - mốc 465

Báo chí đưa tin nhận định của các cty CK trong tuần tới đều đặt mốc 465 làm mốc xem có vượt qua được không? Tôi thì thấy thừa sức vượt qua dù chưa xem đồ thị của VNIndex. Vì tôi xem sơ qua chart của 20 công ty vốn hóa lớn nhất thị trường thì chỉ có 1/4 c/p có dấu hiệu di xuống nhiều hơn đi lên, còn lại 1 ít đi ngang và đa số đi lên. Có điều các c/p này không đi lên đồng đều, và như vậy có thể thấy là VNI sẽ không lên quá mạnh, mà lên từ từ và các mã lớn sẽ làm trụ để xoay liên tục.

Còn các c/p nhỏ thì đa số sẽ có hành trình đi lên. Tôi chưa xem cụ thể các mã của 2 sàn, chỉ bật lướt qua và cũng không nhớ hết mã nào sàn nào. Có điều xem HNXindex thì nó sẽ tăng khoảng 25% trở lên.


Lần này đặt cả MACD và RSI. MACD thì cứ tính từ điểm crosses zero đến đáy của giai đoạn đó thì kéo dài khoảng 5 tháng. Giờ thì đáy HNXindex loanh quanh đâu đây rồi. Riêng RSI có thể chỉnh lower horizotal line xuống dưới tí tẹo thì các điểm mà nó cắt, lần nào sau đó cũng tăng giá thừa sức vượt qua, tức là mua không sợ lỗ. Thêm nữa tôi quan sát thất các LT resistance mà bị chạm lần thứ 4 thì thông thường là bật qua, tức là HNX sẽ bật qua kháng cự. DPM và EIB post trước đây đều cho thấy điều đó. Nhiều c/p lớn khác cũng vậy lắm. Vấn đề HNX vượt qua resistance như nào thôi?




Hôm nọ post chart HTV chạm LT support. Nó thủng qua nhưng tôi cho đó là fake cái đoạn bên dưới. Đặt thêm MACD và Fibonacci thì HTV cho tỷ lệ lãi nhiều lắm. Tôi nghĩ tối thiểu là 50%, còn có thể lên tới 100%. Nói chung mua ở lân cận LT support thì không phải sợ gì cả.



Tương tự là ALP. Tôi mới quét vần A, nhưng thấy nhiều quá nên lại thôi.

5.11.10

EVN và năng lượng ở VN

EVN là tổng điện lớn nhất VN và cũng bị soi mói rất nhiều. Người dân, giới học giả, học thật cũng hay chỉ trích EVN. Nói chung EVN bị chỉ trích cũng đúng, vì nhiều vấn đề trong việc thực hiện cung cấp, thống kê tình hình điện năng, cũng như quản lý các dự án phát triển điện hơi kém. Còn thiếu điện thì không nên đổ hết tội cho EVN.

Trong kinh tế học nói chung, thống kê là một trong những phương pháp quan trọng để đưa ra các nghiên cứu cũng như các lý thuyết. Trong các hoạt động quản trị doanh nghiệp cũng thế. Những đơn vị độc quyền như EVN lẽ ra nên có thống kê đủ các thể loại thật chi tiết và công bố rộng rãi thì sau đó sẽ có những cơ quan nghiên cứu sử dụng rồi đưa ra các chiến lược phát triển.
Cả một ngành bao trùm toàn VN, ảnh hưởng tới mọi hoạt động sản xuất, đời sống mà chỉ lèo tèo vài con số thống kê sơ sơ như EVN công bố thì thật đáng buồn và đáng tiếc.

Nhiều lúc chỉ mong các bạn làm nghiên cứu kinh tế kêu ca các vấn đề này nhiều vào, hoặc thậm chí là giúp EVN tiến hành các thu thập số liệu, phương pháp luận, v.v. Nhưng cũng chẳng có ai. Hình như tất cả chỉ quen chờ sẵn nhìn những cái khó khăn và mình làm khâu cuối.

Nhưng có 1 điều thực sự là cũng phải bênh các bạn EVN ở chỗ giá điện hiện nay quá thấp. Thấp như này thì không thể có lãi nên chẳng ai đầu tư. Nên tình trạng năng lượng ở VN đang rơi vào vòng luẩn quẩn thiếu điện - giá thấp - không đầu tư - thiếu điện.

Cách đây không lâu, có 1 bác hiệp hội năng lượng nói rằng phải tăng giá điện mới giải quyết tình trạng thiếu điện, sau đó bị báo chí đánh cho te tua. Suy ngẫm thì về cơ bản bác ấy nói không sai, vì ai làm trong lĩnh vực đầu tư phát triển nguồn điện thì sẽ biết. Tuy nhiên bị công kích bởi vì thông tin trong lĩnh vực điện quá mờ nhạt để người ta không nhìn thấy được vấn đề. Khi anh đòi tăng giá nhưng dịch vụ của anh kém thì bị kêu là đúng rồi, nhất là bị mang tiếng độc quyền. Tôi nghĩ muốn tăng giá điện thì cần có 1 chiến dịch PR ầm ỹ như các bạn bên PVN chẳng hạn, tiếp đó các bạn EVN đi tiên phong trong lĩnh vực tiết kiệm điện và sau nữa là cần có các nghiên cứu cụ thể về ảnh hưởng của tăng giá điện với đời sống toàn dân.

Còn ở đây tôi chỉ nói về việc giá điện thấp. Ví dụ 1 case cụ thể là dùng khí để phát điện. Chu trình của nó sẽ như sau: Khai thác khí ngoài biển (1) ---> Nhà máy điện trên bờ (2) ----> Bán điện cho EVN (3) ---> bán cho nhân dân.

(1) thì đa số là thuộc về PVN hoặc các công ty nước ngoài. (2) thì có khi thuộc về EVN như nhà máy điện Bà Rịa, có khi thuộc PVN như nhà máy điện Cà Mau hoặc có khi thuộc nước ngoài như Phú Mỹ 2.2 chẳng hạn. Cái mà khiến ngành điện thiếu hiện nay là cái số (2) này.

Mỏ khí Lan Tây của BP vừa rao bán cho TNK-BP chẳng hạn, là phạm trù (1).  Giá bán khí của nó cho nhà máy điện là 2,5$/1 triệu Btu. Khí của mỏ này 1 phần dùng để chạy điện và còn lại là bán cho các nhà máy, cụm sản xuất công nghiệp dọc khu Vũng Tàu - Đồng Nai. 1 triệu BTU quy đổi năng lượng gần bằng 300 KWh điện. Tuy nhiên do nhà máy điện chạy khí có hiệu suất chỉ khoảng 30-40% nên 1 triệu BTU khí chỉ thực sự sản xuất ra gần 120 kwh điện. Tức là 50k VND tiền khí mua vào (tỷ giá 20k/1$), qua nhà máy điện sẽ thành 120k VND nếu bán được cho EVN giá 1000VND/ Kw (5cent/1kw). EVN mua điện từ đó rồi đưa lên lưới truyền tải bán cho nhân dân.  Những cái này là 1 chu trình khép kín. Giá bán đầu cuối cho EVN quyết định đến nhà máy điện, nhà máy điện lại quyết định đến giá khí. Có điều cái anh ở giữa (2) bị kẹp 2 đầu, vừa đầu vào vừa đầu ra. Nên anh đó cực khó xoay sở.

Tuy nhiên vấn đề ở chỗ giá khí 2,5$/1 triệu Btu của mỏ khí Lan Tây là cái giá từ ngày xưa, năm 2002, khi giá dầu là 30$/thùng. Chứ bây giờ nếu bán khí giá đó thì BP không thể nào xây nổi công trình để khai thác khí đưa vào bờ cho nhà máy điện. Giá hiện nay để (1) dự án khai thác khí ngoài biển có lãi, thì cũng phải gần 5$/1 triệu BTU, tức là giá đầu vào của (2) không phải là 50k VND như mua của BP nữa, mà là 100k VND, đầu ra bán 120k VND chưa tính chi phí nhà máy, tiêu hao v.v. .  Nếu lãi ít quá thì không có ai đầu tư, dẫn đến EVN không có điện để mua. Thiếu điện.
Còn EVN cũng không thể mua của (2) với giá cao vì họ bán cho nhân dân giá thấp. Mua cao mà bán sẽ lỗ.

Bài toán tương tự với các nhà máy điện khác như thủy điện hoặc nhiệt điện than. Tất cả hiện nay như  vòng luẩn quẩn không dứt. (Thủy điện thì không phải mua nhưng đầu tư lâu, tốn kém và thất thường, phụ thuộc thiên nhiên).

Năm 2006, một công ty nước ngoài định khai thác khí ở  vực biển Tây Nam Bộ, nằm giữa VN và Thái Lan. Nhà máy điện (2) dự kiến là EVN đầu tư. Họ thấy rằng nếu bán khí cho (2) với giá thấp thì không có lợi nhuận. Khu vực mỏ khí đó lại nằm giữa VN và Thái Lan. Doanh nghiệp này đề xuất là bán khí của VN cho Thái Lan với giá >7$/1 triệu BTU. Giá khí bên Thái đắt hơn ở VN rất nhiều. Mọi nghĩa vụ thuế với chính phủ VN, tỷ lệ ăn chia với VN đều hoàn thành đầy đủ, thậm chí tính ra VN còn lãi hơn rất nhiều nếu bán cho EVN. Dĩ nhiên là phương án đó không được chấp nhận.

Nhưng xét cho cùng, nếu bán cho Thái Lan mà VN được lợi hơn so với bán cho EVN thì sao? Xét trên tổng thể EVN mua rẻ thì bán rẻ cho nhân dân và cuối cùng thì chỉ người dân được lợi, chứ chính phủ bao gồm cả dự án khí + dự án điện EVN vẫn không được lợi so với nếu chỉ bán khí cho Thái Lan. Cụ thể trên bình diện quốc gia, nếu bán khí cho Thái Lan với giá 7$/1 triệu BTU thì VN có lãi rất lớn trong đó. Còn nếu bán cho EVN (2) giá 5$/1 triệu BTU  và sau đó EVN bán điện cho nhân dân giá 5,5 $/1 triệu BTU thì thực ra chính phủ đang chịu thiệt 1,5$/1 triệu BTU.

Nói cách khác là thay vì xuất khẩu tài nguyên, chúng ta đang giữ tài nguyên đó để người dân được sử dụng với giá rẻ. Tương tự là với than. Than bán trong nước rẻ hơn nhiều so với xuất khẩu. Tuy nhiên do thành thói quen nên rất nhiều người nghiễm nhiên cho rằng họ phải được hưởng các nguồn năng lượng đó với giá rẻ. Điều này sẽ đòng nghĩa với nền sản xuất được hỗ trợ bởi năng lượng giá rẻ chứ chưa hướng đến tính cạnh tranh. Cũng may giá điện sản xuất ở VN cao hơn giá điện tiêu dùng, cái đó sẽ làm cho doanh nghiệp đỡ bất ngờ khi không còn được hỗ trợ năng lượng nữa.

Bây giờ gặp phải vấn đề rất lớn là vài năm tới các mỏ khí của VN cạn kiệt nhanh, tức là không còn đủ khí đốt cung cấp cho phát triển đất nước. Người ta đang lên phương án nhập khẩu khí từ nước ngoài. Thế nhưng giá khí nhập khẩu toàn 12-15$/1 triệu BTU. Lý do vì các nước trên thế giới và khu vực có giá khí cao hơn ở VN rất nhiều. Tương tự là sắp tới phải nhập khẩu than cho hàng loạt dự án nhiệt điện.
Hướng đi đó hiện vẫn chưa biết sẽ giải quyết như nào.

Nhìn như vậy quay qua VN mới giật mình thấy: chúng ta đang sống dựa rất nhiều vào năng lượng giá rẻ. Năng lượng dù là nước, than hay khí thì đó đều là tài nguyên và đã là tài nguyên thì không thể vô tận được. Đất nước như 1 công trường khai thác tài nguyên, từ dầu, khí, than đá, các loại mỏ, đến đất đá, rừng cây. Có điều tài nguyên của VN đang cạn kiệt khá nhanh nhưng người ta chưa có thói quen tiết kiệm năng lượng. Những cái này cần có thống kê và nghiên cứu cụ thể hơn nhưng nhìn nhận sơ bộ tôi đã thấy điều đó.

Tuy nhiên thông thường để tiết kiệm năng lượng thì có 1 cách hữu hiệu nhất, nhanh nhất là tăng giá. Khi giá vẫn còn rẻ thì người ta không chịu tiết kiệm nhưng khi đắt đỏ, tự khắc tiết kiệm. Bởi nếu không có thói quen đó thì chỉ vài năm nữa thôi sẽ thấy hậu quả của nó. Cách đây vài năm có 1 số nghiên cứu về hướng nếu điện tăng giá thì ảnh hưởng như nào đến GDP và lạm phát, nhưng tôi nghĩ báo cáo đó chưa đánh giá đủ vì thiếu yếu tố khi tăng giá điện sẽ dẫn đến việc người ta tiết kiệm hơn.

Như quy trình (1) ---> (2) ---> (3) --> (nhân dân) ở trên thì khi tăng giá điện bán cho dân thì hoặc cả 3 phần () đều được tăng giá, hoặc chỉ nên tăng ở 1 mục () nào đó. Vậy thì nên tăng giá () nào để nhà nước được lợi nhất? Khi nhìn ra được cái đó thì CP sẽ có được chính sách cho các bạn PVN, EVN, TKV hoặc các power plant, và các nhà đầu tư cũng hiểu được các mảng nào thuận lợi để đầu tư.

Cái này để ngỏ để mọi người tìm hiểu. (hành trình này trên thế giới giống y chang, VN đi sau nên sẽ lặp lại thôi. Có điều biết trước thì tiết kiệm thời gian loay hoay với các chính sách)

4.11.10

Những tam giác bất khả thi

Đây là entry liên quan đến tỷ giá mà tôi nói hôm trước. Câu chuyện tỷ giá là vấn đề dài, tôi nghĩ là không thể nói ngắn gọn trong 1 bài. Hoặc nếu muốn nói ngắn gọn thì mất nhiều thời gian suy nghĩ để viết gói gọn. Tôi dạo này lười nên cứ viết theo cảm nghĩ cho nó nhanh. Nghĩ đâu viết đó.

Vài tháng trước đây, khi xảy ra vụ Vinashin, tôi có nói rằng năm nay rất lo ngại vấn đề tỷ giá, cá nhân tôi thấy căng hơn vụ năm 2008, đặc biệt là nếu vụ Vinashin giải quyết không ổn thỏa. Những gì tôi viết hồi đó thì hiện giờ có vẻ đang trở thành hiện thực. Tuy nhiên cũng phải nói luôn là cũng giống năm 2008, khi đó có cách cứu vãn tình hình thì năm nay cũng có hướng đi làm dịu tình hình vậy. Nhưng cái đó bàn sau trong entry khác.

Bây giờ quay trở lại Vinashin 1 chút. Từ Vinashin sẽ suy ra được nhiều tập đoàn lớn khác và sẽ có bức tranh rõ hơn về kinh tế VN và từ đó có cái nhìn tổng thể về các vấn đề kinh tế trong đó có chuyện tỷ giá.

Trong kinh tế học quốc tế có khái niệm rất hay là Bộ ba bất khả thi. Đó là không thể có cả 3 thứ tỷ giá cố định, chính sách tiền tệ độc lập và tự do lưu chuyển vốn. Hay nói cụ thể ra thì không thể có cả 3 thứ cùng lúc là: tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp và tỷ giá hối đoái cố định.

Trong quản trị doanh nghiệp cũng có 1 bộ 3 kiểu như vậy. Đó là Chất lượng - Tiến độ - Chi phí, tên gốc của nó là management triangle. Hiểu nôm na thì trong 1 dự án, nếu thay đổi 2 trong 3 cái trên thì cái còn lại cũng phải thay đổi ngược lại. Cụ thể tức là muốn 1 dự án vừa nhanh, vừa tốt thì chắc chắn không thể rẻ. Hoặc muốn vừa nhanh vừa rẻ thì chắc chắn là không thể tốt, hoặc muốn vừa tốt vừa rẻ thì chắc chắn là không thể nhanh.

Vinashin là 1 doanh nghiệp còn trẻ nhưng được giao nhiệm vụ quá lớn là phải phát triển nhanh. Phát triển nhanh tức là phải có nhiều dự án, nhiều công trình và cần thực hiện trong thời gian ngắn. Tức là yếu tố Tiến Độ đối với Vinashin là điều quan trọng nhất. Mọi dự án đóng tàu phải ép thời gian, nhanh hoàn thành càng sớm càng tốt, nhanh đi vào hiện thực để còn hóa rồng. Cái đó sẽ kéo theo: hoặc là chất lượng thấp, hoặc chi phí cao hoặc cả 2.

Mà với doanh nghiệp, một trong 2 cái chất là lượng thấp hoặc chi phí cao đều dẫn đến việc khó tồn tại, khó cạnh tranh. Trái gió trở giời cái là lên đường gặp các cụ ngay. Gượng ép, bơm càng nhiều tiền thì dẫn đến là dễ thua lỗ càng lớn. Hiện thực của Vinashin là như vậy.

Vì thế bây giờ chỉ cần nhìn cứ doanh nghiệp nào phát triển quá nhanh là khả năng đặt bạn đó lên giá treo cổ nhiều hơn là việc tôn vinh.

Tương tự với quản lý tầm quốc gia. Nếu một đất nước đặt mục tiêu phải đầu tư, phát triển nhanh, khắp nơi là các dự án một cách vội vàng (đến mức người ta còn nghĩ là có dự án tàu cao tốc xuyên việt hơn 50 tỷ USD trình như 1 bản nháp chẳng hạn, thậm chí có kiểu dự án xây cổng 1000 năm trong 1 tháng phát biểu như tờ giấy gói xôi) thì nó dẫn đến 1 điều là chi phí các dự án sẽ quá cao hoặc chất lượng quá thấp. Cả 2 cái này đang hiện hữu ở trên khắp VN. Hệ quả của nó là chỉ số Icor báo đài vẫn hay nhăc đến.

Thế nhưng nhìn sang vấn đề khác. Đó là các dự án đang phát triển ở VN. Đa số đều là các dự án đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu. Hàng loạt dự án về điện chẳng hạn. Chi phí đầu tư lên đến hàng chục tỷ $. Như vậy nếu các dự án đó không tự huy động vốn được thì sẽ là nhà nước cho vay hoặc bảo lãnh vay v.v., tức là ngân sách mất đi khả năng dự phòng khi có sự cấp thiết sử dụng vốn $$. Ví dụ như vụ Vinashin bây giờ cần vài trăm triệu $ để trả nợ chẳng hạn, thì khả năng huy động ngoại tệ để CP trả nợ thay cho Vinashin cũng rất khó vì khả năng dự phòng đã đi đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng của đất nước rồi.

Lại có 1 điều nữa là các dự án lớn thì đa phần chũng ta chưa tự nội lực được gì trong các dự án đó. Nền giáo dục không hướng tới đào tạo những người thợ và công nghiệp sản xuất nên trong các công trình đầu tư thực ra là đi mua toàn bộ thiết bị vật liệu từ nước ngoài về, thậm chí thuê cả người nước ngoài làm trọn gói. Những cái đó là yếu tố dẫn đến nhập siêu suốt bao năm nay. Tiêu sài xa hoa hay mua sắm của 1 bộ phận dân chúng chỉ là 1 phần thôi, nhưng nhập siêu chủ yếu là do các dự án nhiều hơn tiêu dùng. (cái này có thể xem thống kê tỷ trọng nhập siêu trên vài tờ báo nào đó). Nhìn xem như lọc dầu Dung Quất 3 tỷ, thủy điện Sơn La gần 3 tỷ rồi hàng loạt nhiệt điện khác mà cứ trung bình 1000MW là 1 tỷ $ (VN cần 30.000MW nữa), các dự án xăng dầu, khí đốt đều hàng trăm triệu $... Đó là tôi nói các dự án của khối doanh nghiệp NN.

Trong khi những người nông dân chổng mông lên giời để xuất khẩu gạo, người thợ may gục mặt vào máy để có kinh ngạch may mặc da dày đóng góp lớn nhất tỷ trọng xuất khẩu VN hiện nay v.v. thì chỉ cần vài dự án đầu tư lớn đã xóa hết những chắt chiu kia. Khi men say chiến thắng với các dự án thì cái gì người ta cũng vẽ ra để đầu tư được kiểu Vinashin 5 năm trước vậy. Đó là chưa nói đến trong tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng gia công thì một phần rất lớn nguyên vật liệu trong đó là do chúng ta chưa sản xuất được, đều phải nhập. Tức là giá trị thặng dư chỉ là các công đoạn labour cost ngắn cũn trong đó mà thôi.

Nhìn chung nếu các dự án lớn có IRR cao thì cũng đỡ, nên đầu tư. Có điều hết năm này qua năm khác, vấn đề nhập siêu cứ giải thích bằng việc do nhập khẩu máy móc thiết bị cho các dự án lớn mà IRR thực tế, NPV ra sao thì không ai có thống kê hay báo cáo để làm các lessons learned. (Kể cả giới học giả cũng chả thấy nghiên cứu chi tiết nào về các công trình, dự án đã đi vào hoạt động trong khi bất cứ dự án nào cũng phải qua các trung tâm thẩm định. Hic). Người ta phải bù vào việc nhập siêu bằng các khoản vay nước ngoài, vốn ODA, FDI hay kiều hối.

Nhìn việc thổng kê chi phí tổ chức lễ hội 1000 năm, hay các khoản chi ngân sách của CP báo cáo QH thì thấy rằng người ta không quản lý được các chi phí chi tiêu công. Nó là những mớ bòng bong rối rắm kinh khủng nếu ai đã trải qua rồi đều biết. Tương tự là sẽ không quản lý được các tiến độ giải ngân của các dự án đầu tư lớn. Mà các dự án đầu tư nó có 1 schedule về budget, tức là cứ đến đó là nó phải có $$$ để nhập khẩu máy móc thiết bị hoặc $$$ để thanh toán cho các thứ liên quan đến nước ngoài. Khi càng có nhiều dự án lớn và càng không kiểm soát được tiến độ giải ngân thì dễ xảy ra hiện tượng nhiều dự án đồng loạt cần $$$ trong 1 thời điểm. Kết hợp với thời điểm cuối năm các DN có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa phục vụ Tết thì tạo thành hiện tượng cộng hưởng. Đó là một trong những mấu chốt khiến tỷ giá biến động.

Nhìn rộng ra khi GDP của quốc gia muốn tăng mạnh thì sẽ gặp phải các cái trouble như vậy về tỷ giá và kéo theo vấn đề lạm phát. Hiện nay VN đang như bị rơi vào vòng xoáy tăng trưởng - lạm phát - tỷ giá vậy. Cái gì cũng muốn nhưng có 1 nguyên tắc của kinh tế học là chẳng cái gì mà không phải trả giá. Hay nói nôm na là không ai có được mọi thứ. Vậy thì cần đặt mục tiêu tổng quát là giải quyết cái gì trong vấn đề trên, rồi đi vào chi tiết.

Trở lại với management triangle. Nó là 1 phần na ná cái bộ 3 bất khả thi ở trên nhưng ở cấp độ thấp hơn. Tức là xác định mục tiêu ở cấp độ tổng quát rồi đi vào các mục tiêu cụ thể bên dưới. Tôi nói nhiều về nhập siêu liên quan đến cấp độ doanh nghiệp nhà nước vì khu vực này là điều mà CP chỉ huy được nhanh nhất trong trường hợp cấp thiết. Và sự chỉ huy đó cũng có tác động nhanh nhất đến vấn đề tỷ giá. Cái này sẽ bàn ở bài khác.

Thôi sơ sơ vài dòng bình loạn về 2 tam giác bất khả thi ở trên. Lúc nào có hứng sẽ lại bàn sau vậy.

Không biết còn tam giác nào bất khả thi nữa không nhỉ? Hihihi

2.11.10

Lại về tỷ giá

Mấy hôm nay, tỷ giá tăng ầm ầm ngoài chợ đen, và nhìn như vậy có thể thấy tại các NH chắc chắn không dễ mua.

Vậy thì tại sao? Và tỷ giá sẽ lên đến như nào? Có cách nào để kìm hãm?

Chiều nay có chút cảm hứng để viết về tỷ giá, nhưng mới được khoảng 1/4 cảm hứng thôi, đành cố gắng viết vài dòng ở đây để duy trì. Hy vọng sẽ có 1 chút trao đổi về tỷ giá trong 1-2 hôm tới.